Ads 468x60px

Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

MÁY IN LASER


Bài 4:   MÁY IN LASER

Máy in Laser hay còn gọi là Máy in tĩnh điện (ES) khác về cơ bản với các máy in loại khác sẽ được mô tả ở trước. Các máy in thong thường đó tạo ra các chấm bằng một quá trình một bước nhờ sự va đập, nhiệt  hoặc phun mực. Các máy in ES (H.4.1) không phải đơn giản như thế. Các ảnh in được tạo thành bỡi một sư tương tác phức tạp và tinh vi của ánh sang, tĩnh điện, hóa học, áp suất nén và nhiệt tất cả đều được điều khiển bỡi một bộ phận điện tử phức tạp ECP (electronic control package). Chương này sẽ trình bày một cách cặn kẽcơ sở của công nghệ EP và giải thích họat động của hệ thống tạo hình trong máy in laser.
                                                 H.4.1. Máy in Laser HP

A- PHƯƠNG PHÁP TĨNH ĐIỆN(ĐIỆN QUANG):

Do sự tương tác giữa các yếu tố, in tĩnh điện được hòan thành bỡi một quá trình hơn là một đầu in. Tập hợp các bộ phận để thực hiện quá trình in ES được gọi là hệ thống tạo hình (IFS) được tạo thành từ tám khu vực khác nhau: một trống nhạy quang, một lá gạt lau chùi, đèn xóa, cái chụp sơ cấp, cơ chế ghi, toner, cái chụp truyền và các trục quay nung chảy. Mỗi bộ phận như vẽ ở (H.4.2) bên dưới đóng một vai trò quan trọng trong họat động riêng của một IFS.


            Một rống nhạy quang (H4.3) nói chung đượpc xem là qủa tim của bất kỳ một IFS nào. Một hình trụ nhôm nhô ra được phủ một hợp chất hữu cơ không độc hại có các tính chất quang dẫn, tức là lớp phủ sẽ dẫn điện khi được chiếu sang. Cái than trụ bằng nhôm được nối đất bộ nguồn nuôi cao thế. Chính là cái trống mới thực sự ghi lại ảnh từ một cơ chế ghi, hiện hình bằng toner, sau đó truyền hình ảnh đã được hiện lên giấy. Mặc dù bạn có thể nghĩ rằng cái trống đóng vai trò của một đầu in vì rằng nó truyền ảnh lên tờ giấy, nhưng ảnh in vẫn chưa phỷai là vĩnh cửu; các thao tác khác phải được thực hiện bỡi một hệ thống IFS. Sự hiện hình đầy đủ là một qúa trình sáu bước: lau chùi, nạp điện, ghi hình, hiện hình, in hình (truyền) và nung chảy – các bước này đều lien quan đến tất cả tám bộ phận IFS. Để hiểu được thực sự IFS, bạn phải thong thạo mỗi bước một cách chi tiết.



1 - Lau chùi:

Trước khi một chu trình in mới có thể bắt đầu, cái trống nhạy quang phải được lau chùi về phương diện vật lý và được xóa sạch về điện. Sự lau chùi nghe có vẻ là một bước không quang trọng, nhưng chẳng phải là chính cái trống tốt nhất sẽ truyền các hạt toner nhỏ xíu lên trang giấy đó hay sao. Một cái lá gạt lau bằng cao su được bố trí dọc theo tòan bộ chiều dài của cái trống sẽ gạt hết hạt toner nào còn bám lại từ trang in trước. Nếu toner dư thừa không được lau sạch, nó có thể bám chặt vào các trang giấy in sau và xuất hiện như các vết đen ngẫu nhiên. Toner gạn được từ trống sẽ được chứa trong một cái sọt rác như minh họa ở H.4.4. Hãy nhớ rằng khi lau không được làm xước hoặc để lại vết khía trên trống. Một sự hư hại bất kỳ của bề mặt nhạy quang sẽ trở thành một dấu vết vĩnh cửu lưu lại trên các trang giấy in sau này. Một vài thiết kế máy in ES làm quay ngược các hạt toner thu nhặt lại trở về nguồn cung ứng toner để dùng lại. Kỷ thuật quay trở về nạp lại có thể kéo dài tuổi thọ của cartrit điện quang (EP) và loại bỏ được sự cần thiết phải có một cái sọt rác lớn.

            Các ảnh được ghi lên trống như là các dòng nằm ngang của các điện tích tương hợp với hình ảnh cần in. Một chấm ánh sang tạo ra một điện tích dương tương đối tại điểm đó, nó tương ứng với một chấm sang in ảnh đầy đủ. Sự vắn mặt của chấm ánh sang làm cho một điện tích âm tương đối giữ nguyên không thay đổi và không có chấm nào được tạo ra. Các điện tích do ánh sang tạo ra phải được lấy đi hết trước khi các ảnh mới có thể được ghi vào; nếu không các ảnh in sẽ bị ghi chồng ảnh nọ lên ảnh kia.
            Một chuỗi các đèn xóa được bố trí sát ngay bên cạnh bề mặt trống. Ánh sang của chúng được lọc để chỉ cho phép các bước song hữu hiệu đi qua mà thôi. Ánh sáng xóa sẽ làm biến mất mội điện tích dọc theo trống. Các điện tích chạy xuống đất qua hình trụ nhôm như trình bày ở H.4.5. Sau khi được xóa, bề mặt trống trở thành hòan tòan trung hòa – nó không còn chứa một điện tích nào cả.


2 - Nạp điện:

Một bề mặt trống trung hòa sẽ không được nhận ánh sáng từ cơ chế ghi. Các ảnh mới không thể được ghi chừng nào cái trống còn chưa được nạp điện trở lại. Nhầm một đích chuẩn bị cho trống làm việc lại, một điện tích đồng đều phải được tạo ra trên khắp bề mặt của nó. Sự nạp điện cho bề mặt được thực hiện bằng cách tác dụng một điện áp âm cực lớn(thường lớn hơn -5000V) lên một vật rắn bằng kim lọai gọi là cái chụp sơ cấp đặt rất gần cái trống. Vì rằng cái trống và bộ nguồn nuôi cao áp có cùng chung điểm đất, nên một đện trường được tạo ra giữa sợi dây dẫn của cái chụp và trống như vẽ ở H.4.6.
            Với các điện áp thấp, lớp không khí giữa sợi dây của cái chụp và trống tác dụng như một vật cách điện. Tuy nhiên, với điện áp hằng nghìn vôn thì sự các điện của không khí bị đánh thủng và một vương miện điện được tạo thành. Vương miện sẽ ion hóa mọi phân tử khí ở chung quanh sơi dây, do vậy các điện tích âm sẽ chạy đến bề mặt trống.
            Điều không lợi của khí ion hóa là nó có điện trở rất mhỏ. Một khi vương miện được tạo thành, thì có sự đỏan mạch điện giữa sơi dây và trống. Sự đỏan mạch này là không có lợi đối với bộ nguồn nuôi cao áp. Một cái lưới sơ cấp(là một bộ phận của hệ thống cái chụp) được thêm vào giữa sợi dây và trống. Bằng cách tác dụng vào lưới một điện áp âm thì có thể điều khiiển và khống chế được điện áp và dòng điện trên trống. Điện áp điều khiển lưới này( thường từ -600 đến -1000V) tạo ra mức tích điện thực sự của trống. Cái trống bây giờ đã sẵng sàn để ghi một hình ảnh mới.


3 - Ghi hình:

Để tạo ra một ảnh ẩn trên mặt trống, lớp điện tích đồng đều được chuẩn bị từ trước trên mặt trống phải được phóng điện tại những nơi định trước chính xác là những nơi mà ảnh cần được tạo ra. Các ảnh được ghi bằng ánh sáng. Những điểm nào trên mặt trống được chiếu sang sẽ phóng điện xuống một mức rất thấp (khỏang -100V), trong khi chỗ nào không được chiếu sáng sẽ giữ  nguyên điện tích sẵng có. Thiết bị tạo ra và điều khiển tia sang lên mặt trống được gọi là cơ chế ghi.
            Vì rằng ảnh được tạo thành từ một chuỗi các chấm riêng biệt, một số lượng chấm nhiều hơn trên một điện tích sẽ cho độ phân giải tốt hơn (và chất lượng cao hơn) của ảnh. Giả sử rằng cơ chế ghi có thể tạo ra 300 chấm trên một inch (dpi) dọc theo phương nằm ngang của trống và trống có thể quay tới theo từng nấc bằng 1/300 của một inch. Trong ví dụ này, máy in của bạn có thể tạo ra các ảnh với độ phân giải 300×300 dpi.
            Theo truyền thống, các máy Laser được dung như là các cơ chế ghi và cho đến nay vẫn được dùng trong các máy in ES. Các thiết kế mới của máy in, tuy đã thay thế các laser bằng các thanh chứa LED hoặc các mạng các khóa tinh thể lỏng (LCS) để điều khiển  ánh sang khi cầ thiết. Các cơ chế ghi sẽ được đề cập sâu hơn về sau trong chương này.

4 - Hiện hình:

Các ảnh ghi lên trống ban đầu là không tìm thấy được chỉ đơn thuần là một mạng các điện tích ES. Ảnh ẩn phải được làm hiện hình, thành một điểm nhìn thấy được trước khi  có thể in nó nó lên giấy. Toner được dung cho mục đích này. Toner là một chất bột rất mịn của chất dẻo và các hợp chất hữu cơ được bao quanh các hạt mạt sắt. Các hạt riêng lẻ có thể nhìn thấy được bằng một kính hiển vi có độ phóng đại cực lớn.
            Toner được phun bằng cách dùng một hình trụ toner nhu trình bày trên H.4.7. Một hình trụ toner về cơ bản là một cái ống kim loại dài chứa một nam châm vĩnh cửu. nó được  lắp đặt ở bên trong một cái máng cung ứng toner. Khi hình trụ quay, các hạt mạt sắt ở bên trên hạt toner hút toner vào hình trụ. Khi bị hút, toner nhiễm điện tích âm do bộ nguồn nuôi cao áp cấp cho. Mức điện tích tĩnh này nằm giữa các mức của trống nhậy quang được chiếu sang và không được chiếu sang(ở một mức nào đó từ -200 đến -500V tùy thuộc vào mức độ điều khiển đặt trước). Một lá gạt để hạn chế toner trên hình trụ bám thành một lớp mỏng duy nhất.


            Toner điện tích trên hình trụ bây giờ quay rất gần với cái trống được chiếu sáng ngay bên cạnh. Các điểm nào của trống không bị chiếu sang sẽ có điện tích âm rất mạnh. Diện tích âm này đẩy toner giữ nằm yên ở trên hình trụ và toner quay trở về máng cung ứng. Các điểm nào của trống mà bị chiếu sang sẽ có điện tích ít hơn các hạt toner. Sự khác biệt về mức độ điện tích đó sẽ hút toner từ hình trụ lên các điểm tương ứng  trên trống. Toner điền vào ảnh ẩn để tạo ra một ảnh nhìn thấy được (hoặc ảnh đã hiện hình).
            Lưu ý rằng một điện áp AC phù trợ được thêm vào nối tiếp với mức định thiên DC. Điện áp AC tạo ra những sự thăng giáng của mức tích điện của toner. Khi tín hiệu AC dương lên, thì mức cường độ tăng lên để giúp các hạt toner thắng được sức hút của  nam châm vĩnh cửu của hình trụ. Khi tín hiệu AC âm xuống, mức cường độ giảm xuống sẽ đẩy lùi mội hạt toner nào bay sai sang các chỗ không bị chiếu sáng. Kỷ thụât này đã hòan thiện lên rất nhiều mật độ in và độ tương phản của ảnh. Ảnh đã được hiện hình, bây giờ có thể in lên giấy.

5 - Truyền in ảnh:

Đến thời điểm này, ảnh toner đã được hiện hình trên trống cần phải được in lên giấy. Vì rằng đến bây giờ toner bị hút ở trên trống, nó phải được bẩy đi khỏi bằng cách sử dụng một điện tích hút lớn hơn ở trên tờ giấy. Một cái chụp truyền tích điện cho giấy như hình vẽ H.4.8. Lý thuyết miêu tả  sự họat động của cái chụp truyền hòan tòan cũng chính là lý thuyết của cái chụp sơ cấp, chỉ trừ ở đây điện thế là dương. Cái chụp truyền tạo ra một điện tích dương mạnh trên tờ giấy và điện tích này hút các hạt toner tích điện âm. Hãy nhớ rằng quá trình này không phải là hòan hảo. Không phải mội hạt toner đều được truyền qua giấy; như vậy mội sư lau chùi là rất cần thiết.


            Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý. Vì rằng cái trống tích điện âm và tờ giấy tích điện dương có xu hướng hút lẫn nhau, nên có khả năng là giấy sẽ bị quấn vào trống. Mặc dù cái trống đường kính nhỏ và độ cứng tự nhiên của giấy có xu hướng chống lại sự cuốn đó, nhưng một bộ khử tĩnh điện (hoặc cái lược khử tĩnh điện) cũng được them vào chống lại các điện tích dương và khử bỏ lực hút giữa giấy và trống. Giấy bây giờ không còn điện tích thực nào nữa. Cái trống có thể được lau chùi và chuẩn bị để in một ảnh mới.

6 - Nung chảy:

Một khi ảnh toner được truyền qua mặt giấy, chúng chỉ mới bám vào tờ giấy bỡi lực hấp dẫn và lực hút tĩnh điện yếu. Toner phải được cố định vĩnh viễn (hoặc bị nung chảy) lên trang giấy trước khi lấy giấy ra ngòai. Sự nung chảy được thực hiện nhờ hệ thống nhiệt và áp suất tương tự như hệ thống vẽ ở H.4.9. Một cái đèn thạch anh cường độ lớn (đèn nung chảy) đốt nóng một trục quay không dính đến nhiệt độ khỏang 180°C. Sức ép được tạo ra nhờ một trục quay bằng cao su mềm. Khi tờ giấy đã hiện hình đi qua giữa hai trục quay đó, thì nhiệt từ trục quay trên sẽ làm chảy toner, và sức ép từ trục quay dưới sẽ ép chặt toner nóng chảy lên thớ sợi của giấy, ở đó nó nguội đi và bám vĩnh viễn vào đó. Trang in đã hòan thành sau đó được đưa đến khay ra giấy. Lưu ý rằng cả hai trục quay được coi là các trục quay nung chảy mặc dù chỉ có trục quay ở trên là làm nung chảy thực sự mà thôi.



            Để chống lại việc các hạt toner bám dính vào trục quay nung chảy, trục quay được phủ một lớp nhựa không dính như Teflon. Một lá gạt lau được them vào để gạt đi hết những hạt toner nào cho đến lúc này vẫn còn bám dính. Nhiệt độ nung chảy phải được khống chế cẩn thận. Thông thường một nhiệt điện trở được dùng để ổn định dòng điện chạy qua đèn thạch anh để duy trì một nhiệt độ không đổi. Một chuyển mạch nhiệt ngắt mạch cũng được them vào để làm nhiệm vụ bảo vệ an tòan khi nhiệt độ của đèn tăng cao quá vùng khống chế. Một sự hư hỏng trong hệ thống khống chế nhiệt độ có thể sẽ dẫn đến sự hư hỏng của máy in hoặc thậm chí gây ra hỏa họan.
----------------------------------------

NGUỒN MÁY TÍNH


NGUỒN MÁY TÍNH

I - Cách kiểm tra nguồn có hoạt động không?


Chập chân lệnh P.ON với PG (dùng sợi thiếc đấu dây mầu xanh lá cây vào một dây mầu Xám)
  • Cấp điện cho bộ nguồn và quan sát quạt
  • Nếu quạt quay tít là nguồn đã hoạt động tốt
  • Trường hợp sau đây là nguồn đã hoạt động
    Khi cắm điện và chập chân P.ON với PG thấy quạt quay tít chứng tỏ nguồn hoạt động tốt
  • Trường hợp sau đây là nguồn bị chập các đi ốt chỉnh lưu điện áp ra, quạt nguồn chỉ hơi lắc lư khi cấp điện và chập chân P.ON với PG
    Khi cắm điện và chập chân P.ON với PG thấy quạt hơi lắc lư là do nguồn bị chập phụ tải
  • Trường hợp sau đây là nguồn bị mất hồi tiếp nên điện áp ra tăng cao, mạch bảo vệ hoạt động và ngắt điện áp ra ngay khi nó mới hoạt động.
    Khi cắm điện và chập chân P.ON với PG thấy quạt nguồn quay vài vòng rồi tắt đây là hiện tượng nguồn bị hỏng mạch hồi tiếp ổn định điện áp ra
-----------------------------------------------------

II - Tổng quan về nguồn xung và nguồn ATX

1. NGUYÊN LÝ NGUỒN XUNG
1.1. Khái niệm :
- Mạch nguồn xung (còn gọi là nguồn ngắt/mở – switching) là mạch nghịch lưu thực hiện việc chuyển đổi năng lượng điện một chiều thành năng lượng điện xoay chiều.

1.2. Các sơ đồ nghịch lưu :
Có 2 dạng nghịch lưu cơ bản : nối tiếp và song song.

1.2.1. Sơ đồ nghịch lưu nối tiếp




Ưu điểm : Đơn giản, dễ tính toán thiết kế, dễ lắp ráp.
Nhược điểm : Cho phép dung sai linh kiện rất thấp. Không cách ly được mass sơ cấp và thứ cấp nên gây giật cho người sử dụng, gây nguy hiểm cho các linh kiện nhạy cảm. Chính vì vậy nguồn kiểu này hiện nay rất ít được sử dụng.
Một trong những thiết bị điện tử dân dụng có nhiều ở Việt nam sử dụng nguồn nghịch lưu nối tiếp là máy thu hình Samsung CW3312, Deawoo 1418.

1.2.2. Sơ đồ nghịch lưu song song :


Ưu điểm : Dễ thay đổi điện áp ra, cho phép dung sai linh kiện lớn. Mass sơ cấp và thứ cấp được cách ly tốt, an toàn cho người sử dụng và tải.
Nhược điểm : Mạch phức tạp, khó sửa chữa
Do khả năng cách ly tốt nên mạch nghịch lưu song song được dùng trong tất cả cả các bộ nguồn máy tính, từ AT đến ATX. Loạt bài này sẽ tập trung phân tích mạch nghịch lưu song song trong nguồn ATX.

2. NGUỒN MÁY TÍNH (ATX)
2.1. Chức năng :
Biến đổi nguồn xoay chiều dân dụng (ở Việt Nam là 220v/50Hz, Nhật Bản là 110V/60Hz …) thành các điện áp một chiều cung cấp cho PC.
Các mức nguồn một chiều ra bao gồm :
+5V, +12V, +3.3V, -5V, -12V, +5V STB (standby – cấp trước, chờ), +4.5-5V PS-ON (Power Switch On – công tắc mở/bật nguồn), +5V PG (Power Good – Nguồn tốt, tín hiệu đồng bộ cho tất cả các mạch điện trong PC cùng khởi động).

2.2. Sơ đồ khối nguồn ATX

2.3. Chức năng các khối :


(1) Bảo vệ nguồn và tải khi bị sét đánh, khi điện áp vào tăng đột ngột.
Lọc, loại bỏ hoặc giảm thiểu các xung nhiễu công nghiệp thông qua nguồn AC đi vào mạch nguồn ATX, nếu những nhiễu này không được loại bỏ có thể gây cháy nổ mạch nguồn, tải, giảm độ ổn định khi tải làm việc.
(2) Ngắt mở theo xung kích thích, nhằm tạo ra dòng điện không liên tục trên biến áp chính để lợi dụng hiện tượng cảm ứng điện từ tạo ra điện áp cảm ứng trên thứ cấp.
(3) Là tải của công suất chính, tạo điện áp ra thứ cấp, đồng thời cách ly giữa 2 khối sơ/thứ cấp để loại bỏ mass (điện áp cao) của sơ cấp bảo vệ tải và người sử dụng.
(4) Là một mạch nghịch lưu công suất nhỏ, có thể dùng dao động riêng hoặc blocking
(5) Là tải của công suất cấp trước, nhằm tạo ra điện áp cấp trước gồm 2 mức : 5V, 12-16V cung cấp cho dao động, PS-ON, STB và khuyếch đại kích thích.
(6) Nắn, lọc, ổn áp đưa ra các điện áp một chiều standby.
(7) Là một mạch dao động RC nhằm tạo ra xung vuông có tần số cố định (các nguồn đời cũ có tần số 13KHz, nguồn đời mới là 19KHz). Xung này được gửi tới điều khiển công suất chính đóng/mở. Xung ra từ dao động có độ rộng xung (tx) biến đổi theo điện áp ra, nếu điện áp ra cao hơn thiết kế thì độ rộng xung giảm xuống. Ngược lại, nếu điện áp ra giảm thấp hơn thiết kế thì độ rộng xung tăng lên. Vì vậy IC thực hiện dao động có tên là PWM (Pulse Wide Modulation – điều khiển độ rộng xung)
(8) Khuyếch đại tăng cường biên độ xung điều khiển. Đầu vào của mạch chính là xung vuông ra từ mạch dao động.
(9) Là tải của mạch khuyếch đại dao động kích thích với mục đích ghép xung kích thích sang công suất chính, đồng thời không làm mất đi sự cách ly giữa phần sơ cấp, thứ cấp.
(10) Bao gồm các mạch nắn, lọc, ổn áp. Đầu vào là điện áp xoay chiều lấy ra từ biến áp công suất chính, đầu ra là các mức áp một chiều ỏn định đưa đến jack ATX.
(11) Mạch hồi tiếp ổn định điện áp hoặc ngắt dao động khi điện áp ra quá lớn, ngắt dao động khi có chập tải để bảo vệ mạch nguồn cũng như bảo vệ tải (tránh hư hỏng thêm)
(12) Mạch khuyếch đại thuật toán, sẽ hoạt động sau khi máy được bật, tạo ra điện áp PG, thời điểm xuất hiện PG sẽ trễ hơn các điện áp chính khoảng 0.2-0.5 giây, nhằm chờ cho các điện áp ra đã ổn định. PG đưa vào main và kích thích tất cả các mạch trên main bắt đầu hoạt động ở cùng 1 thời điểm (đồng bộ thời điểm gốc)


CÁC MẠCH ĐIỆN CƠ BẢN CỦA NGUỒN ATX


 Các mạch điện cơ bản Của nguồn

·  - Transistor trên nguồn ATX thường được sử dụng làm các mạch công tắc,
·  khi nhìn vào các mạch này bạn có thể nhầm lẫn đó là mạch khuếch đại.- Ở mạch công tắc, các Transistor hoạt động ở một trong hai trạng thái là “dẫn bão hoà” hoặc “không dẫn”

Các Transistor trong mạch bảo vệ của nguồn ATX, hoạt động ở trạng thái dẫn bão hoà hoặc tắt.
·  IC khuếch đại thuật toán OP-AMPLY1) Ký hiệu của IC khuếch đại thuật toán – OP-Amply


OP-Amply – IC khuếch đại thuật toán
  • Cấu tạoOP-Amply có các chân như sau:- Vcc – Chân điện áp cung cấp- Mass – Chân tiếp đất- IN1 – Chân tín hiệu vào đảo- IN2 – Chân tín hiệu vào không đảo- OUT – Chân tín hiệu ra
  • Trên
sơ đồ nguyên lý, OP-Amly thường ghi tắt không có chân Vcc và chân Mass,
hai chân IN1 và IN2 có thể tráo vị trí cho nhau.
2) Nguyên lý hoạt động của OP-Amply
OP-Amply hoạt động theo nguyên tắc: Khuếch đại sự chênh lệch giữa hai điện áp đầu vào IN1 và IN2
- Khi chênh lệch giữa hai điện áp đầu vào bằng 0 (tức IN2 – IN1 = 0V)
thì điện áp ra có giá trị bằng khoảng 45% điện áp Vcc
- Khi điện áp đầu vào IN2 > IN1 => thì điện áp đầu ra tăng lên bằng Vcc
- Khi điện áp đầu vào IN2 < IN1 => thì điện áp đầu ra giảm xuống bằng 0V

Sơ đồ bên trong của OP-Amply
3) Ứng dụng của OP-Amply
3.1 – Mạch khuếch đại đảo dùng OP-Amply

- Nếu ta cho tín hiệu vào đầu vào đảo (cực âm) và đầu vào không
đảo (cực dương) đem chập xuống mass ta sẽ được một mạch khuếch đại đảo.
- Hệ số khuếch đại có thể điều chỉnh được bằng cách điều chỉnh giá trị
các điện trở Rht và R1, hệ số khuếch đại bằng tỷ số giữa hai điện trở
này.
K = Rht / R1 trong đó K là hệ số khuếch đại của mạch
3.2 – Mạch khuếch đại không đảo dùng OP-Amply


Đây là sơ đồ của mạch khuếch đại không đảo, về hệ số khuếch đại thì
tương đương với mạch khuếch đại đảo nhưng điểm khác là điện áp ra Vout cùng pha với điện áp đầu vào Vin
3.3 – Mạch khuếch đại đệm (khuếch đại dòng điện) dùng OP-Amply.

Khi đem đầu ra đấu với đầu vào âm (hay đầu vào đảo) rồi cho tín hiệu
vào cổng không đảo ta sẽ thu được một mach khuếch đại có hệ số
khuếch đại điện áp bằng 1, tuy nhiên hệ số khuếch đại về dòng lại rất
lớn, vì vậy mạch kiểu này thường được sử dụng trong các mạch khuếch đại
về dòng điện.
3.4 – Mạch so sánh dùng OP-Amply


  • Khi V2 = V1 thì điện áp ra Vout = khoảng 45% Vcc và không đổi
  • Khi V2 > V1 hay V2 – V1 > 0 thì Vout > 45% Vcc
  • Khi V2 < V1 hay V2 – V1 < 0 thì Vout < 45% Vcc
  • Khi V1 không đổi thì Vout tỷ lệ thuận với V2
  • Khi V2 không đổi thì Vout tỷ lệ nghịch với V1
·  IC so quang (Opto)1 – Cấu tạo: – IC so quang được cấu tạo bởi một đi ốt phát quang và một đèn thu
quang, hai thành phần này cách ly với nhau và có thể cách ly được điện
áp hàng trăm vol, khi đi ốt dẫn nó phát ra ánh sáng chiếu vào cực Bazơ
của Transistor thu quang làm cho đèn này dẫn, dòng điện qua đi ốt thay
đổi thì dòng điện qua đèn cũng thay đổi theo


IC so quang thực tế
2 – Nguyên lý hoạt động
- Khi có dòng điện I1 đi qua đi ốt, đi ốt sẽ phát ra ánh sáng và
chiếu vào cực B của đèn thu quang, đèn thu quang sẽ dẫn và cho dòng I2
- Dòng I1 tăng thì dòng I2 cũng tăng
- Dòng I1 giảm thì dòng I2 cũng giảm
- Dòng I1 = 0 thì dòng I2 = 0
Đi ốt phát quang và đèn thu quang được cách ly với nhau và có thể
có điện áp chênh lệch hàng trăm Vol
Hoạt động của IC so quang
3 – Ứng dụng của IC so quang
- IC so quang thường được ứng dụng trong mạch hồi tiếp trên các bộ nguồn xung.
- Chúng có tác dụng đưa được thông tin biến đổi điện áp từ thứ
cấp về bên sơ cấp nhưng vẫn cách ly được điện áp giữa sơ cấp và thứ
cấp.
- Sơ cấp của nguồn (thông với điện áp lưới AC) và thứ cấp của nguồn (thông với mass của máy)

·  IC tạo điện áp dò sai- Người ta thường dùng IC tạo áp dò sai KA431(hoặc TL431) trong các mạch nguồn để theo dõi và khuếch đại những biến đổi điện áp đầu ra thành dòng điện chạy qua IC so quang, từ đó thông qua IC so quang nó truyền được thông tin biến đổi điện áp về bên sơ cấp.

Cấu tạo và ký hiệu của IC tao áp dò sai KA 431


Hình dáng IC – KA 431 




·  Đi ốt kép- Trong nguồn ATX người ta thường sử dụng Đi ốt kép để chỉnh lưu điện áp đầu ra- Hình dáng đi ốt kép trông tương tự như đèn công suất và có ký hiệu như ảnh trên- Đi ốt kép thường cho dòng lớn và chịu được tần số cao

·  Cuộn dây lọc gợn cao tần. Cuộn dây lọc nhiễu hình xuyếnTrong nguồn ATX ta thường nhìn thấy cuộn dây như trên ở đầu ra gần các
bối dây cấp nguồn xuống Mainboard, tác dụng của cuộn dây này là để chặn
các nhiễu cao tần, đồng thời kết hợp với tụ lọc để tạo thành mạch lọc
LC lọc cho các điện áp ra được bằng phẳng hơn.



Common Posts